Hệ thống điện tử Asahi (lớp tàu khu trục)

Một tính năng quan trọng khác làm cho lớp Asahi trở nên độc đáo: hệ thống điện tử của tàu. Asahi là tàu chiến đầu tiên của Nhật Bản được trang bị radar mạng pha 3 tham số (3D) đa chức năng GaN-AESA (gallium nitride - active electronically scanned array). Radar OPY-1 của Asahi được thiết kế dựa trên hệ thống radar AESA FCS-3A của tàu Akizuki nhưng sử dụng công nghệ vật liệu gallium-nitride để cải thiện khả năng tác chiến. Việc sử dụng công nghệ GaN, có thể hoạt động ở nhiệt độ cao hơn so với công nghệ GaAs, cho phép chuyển đổi phương pháp làm mát từ chất lỏng sang làm mát bằng không khí, làm giảm kích thước cần thiết của phần cứng để tạo ra một mức độ năng lượng cụ thể đồng thời làm giảm lượng điện năng tiêu thụ và làm mát cần thiết. Ngoài ra, radar OPY-1 được chế tạo từ phần cứng sẵn có trên thị trường, thiết bị điều khiển đầu cuối của radar được xây dựng từ các bộ vi xử lý, cho phép nhà sản xuất dễ dàng nâng cấp, hiện đại hóa thiết bị với các bộ vi xử lý trong tương lai để cho phép hệ thống đối phó với các mối đe dọa tiềm năng.

OPY-1 có hiệu suất làm việc cao hơn, xác suất mất mục tiêu thấp hơn, phạm vi hoạt động lớn hơn, độ chính xác vì thế mà cũng cao hơn so với OPS-50. Đối với hệ thống phòng không, việc nâng cao độ nhạy máy thu và tăng cường khả năng chống nhiễu của radar là vô cùng cần thiết. Nó đảm bảo cho toàn hệ thống có thể phát hiện chính xác mục tiêu, thực hiện bám sát và tiêu diệt mục tiêu trong môi trường nhiễu tự nhiên và nhiễu nhân tạo. OPY-1 có các bộ xử lý tín hiệu riêng biệt cho từng băng tần làm việc cùng với hệ thống chống nhiễu hiện đại, màn hiện sóng cảm ứng tiên tiến và đặc biệt là khả năng tự động hóa ở mức độ rất cao.

Radar băng tần kép OPY-1 gồm 8 mảng anten lớn và nhỏ đặt cạnh nhau. Mảng anten lớn hoạt động ở băng tần C (bước sóng từ 7,5 đến 3,75 cm) dùng để theo dõi và giám sát mục tiêu. Mỗi mảng anten lớn có khả năng tự động phát hiện, theo dõi các mục tiêu trên không và trên biển cùng lúc với số lượng lên đến 300 mục tiêu. Khi mục tiêu bị phát hiện, mảng anten cảnh giới sẽ tự động đánh giá mối đe dọa và cung cấp tham số về mảng anten điều khiển hỏa lực. Khác với radar dải sóng dm AN/SPY-1D của tàu lớp Kongo, các radar dải sóng cm của Nhật có khả năng phát hiện các mục tiêu kích cỡ nhỏ ở cự ly lên đến 200 km. Tuy nhiên, về mặt đánh chặn mục tiêu ở tầm xa, Asahi không thể sánh nổi với khả năng của Kongo vì radar AN/SPY-1D công suất mạnh có khả năng kiểm soát tình hình ngay cả ở các quỹ đạo thấp gần trái đất. Mảng anten nhỏ hoạt động ở băng tần X (bước sóng từ 3,75 đến 2,5 cm) có chức năng điều khiển hỏa lực. Sau khi nhận tham số từ mảng anten cảnh giới, bộ vi xử lý của anten sẽ tiến hành theo dõi và xác định chủng loại mục tiêu, nó cũng kiểm soát việc phóng đạn và chiếu xạ sau khi tên lửa được phóng. hệ thống có khả năng dẫn hướng cho cả tên lửa hải đối không, tên lửa chống hạm và pháo hạm, trong khi vẫn duy trì khả năng bảo vệ nhóm chiến đấu trước nhiều mối đe dọa khác nhau.

Ngoài ra, OPY-1 còn được tích hợp hệ thống giám sát các mục tiêu bay thấp và cực thấp, xác định các mối đe dọa từ đất liền, trên biển và hệ thống phối hợp giũa hai hai băng tần C - X.

Hệ thống định hướng chiến đấu OYQ-13 được trang bị hệ thống máy tính điều khiển OYX-1 do Nhật tự sản xuất trong nước. Thông tin thu nhận được từ radar OPY-1, hệ thống kiểm soát tác chiến chống ngầm và hệ thống chiến tranh điện tử tích hợp NOLQ-3D-2 sẽ được tập trung vào hệ thống. Sau đó, với khả năng tính toán siêu tốc lên đến 10 Mbit/giây, hệ thống máy tính sẽ tự động đánh giá mối đe dọa, ưu tiên mục tiêu, lập kế hoạch và lựa chọn loại vũ khí để tiêu diệt. Hệ thống OYQ-13 được thiết kế dưới dạng các module mở cho phép tạo sự linh hoạt cao trong hoạt động tác chiến và dễ dàng tiến hành các công tác sửa đổi và nâng cấp trong tương lai.

Việc kết nối các hệ thống điện tử trên tàu được thực hiện thông qua hệ thống mạng diện rộng NOYQ-1B. Hê thống này kết nối tất cả các thiết bị trên tàu thông qua hệ thống cáp quang tốc độ cao dưới dạng Gigabit Ethernet. Nhờ vậy, khả năng phản ứng và xử lý các tình huống của tàu được nâng lên đáng kể. NOYQ-1B được đánh giá tương đương với hệ thống mạng diện rộng trên tàu khu trục lớp Zumwalt của Hải quân Hoa Kỳ.

Hệ thống thông tin liên lạc của tàu ngoài hoạt động trên tần sóng ngắn thông thường (HF), tần số rất cao (VHF) và tần số cực cao (UHF), còn có thể tham gia vào mạng dữ liệu tích hợp (JDN) và Hệ thống dữ liệu chiến thuật Hải quân (NTDS). Được liên kết thông qua đường truyền dữ liệu cấp chiến thuật Link 11 và Link 16. Đường truyền dữ liệu link 16 có khả năng cung cấp phương thức truyền tải dữ liệu đảm bảo tin cậy, với đặc điểm tức thời, chống nhiễu và an toàn vừa có khả năng truyền tải dữ liệu và ngôn ngữ chiến trường vừa có thể cung cấp dữ liệu dẫn đường ngược chiều phục vụ chiến đấu. Bất kỳ một bên nào trong đường truyền dữ liệu đều nhận được hình ảnh nhận biết địch ta kỹ thuật số trong không gian chiến trường. Đối với liên lạc vệ tinh, tàu đươc trang bị hệ thống liên lạc vệ tinh NORA-1C-Y1 (hoạt động trên băng tần X và K) dùng để kết nối với vệ tinh SUPERBIRD B2 và NORQ-1 (hoạt động trên băng tần Ku).

Trong tác chiến chống tàu mặt nước, tàu được trang bị radar chuyển hướng, dẫn đường OPS-20C, radar định vị nhận dạng và theo dõi mục tiêu mặt nước OPS-48. Hệ thống kiểm soát tác chiến chống ngầm của Asahi: sonar kiểu mảng kéo OQR-4 kiểu mới và sonar kết hợp chủ/bị động phát hiện và xác định vị trí tàu ngầm OQQ-24 được gắn cố định trong quả cầu hình giọt nước ở mũi tàu. Trong tác chiến điện tử, tàu trang bị hệ thống chiến tranh điện tử NOLQ-3D-2. Hệ thống NOLQ-3D-2 được cấu thành bởi hai bộ phận chính là trinh sát điện tử và gây nhiễu điện tử. Hệ thống chiến tranh điện tử NOLQ-3D ESM/ECM được điều khiển bởi một máy tính tốc độ cao có khả năng xử lý, quản lý hàng nghìn phép tính/giây và được vận hành bằng phương thức tự động hoặc bán tự động. Trong đó, bộ phận trinh sát điện tử sử dụng băng tần hỗ hợp nên có khả năng mở rộng dải trinh sát với độ chính xác lên tới 1 độ và phạm vi bao phủ 360 độ. Còn bộ phận gây nhiễu điện tử được cấu thành bởi 4 annten, mỗi anten có khả năng tác nghiệp một góc 90 độ với tổng cộng 140 dải tần số khác nhau. Hệ thống này có thể cùng một lúc gây nhiễu đối với 80 bộ radar với thời gian phản ứng trước các tình huống cực ngắn.

NOLQ-3D-2 được kết hợp với hệ thống phóng mồi nhử Mk-137 SRBOC mod 2. Mk-137 SRBOC mod 2 có bán kính tác chiến gây nhiễn là 4 km; công suất gây nhiễu từ 7 - 8 kW; công suất gây nhiễu hồng ngoại từ 3 - 5 kW; độ cao tác chiến là 150m, độ trễ là 3,5 - 0,5 giây; thời gian hình thành khu vực gây nhiễu là 8,5 giây; thời gian hình thành tường hồng ngoại gây nhiễu là 6 giây. Cơ chế hoạt động của Mk-137 đó là phóng ra các quả rocket chứa nhiều lá nhôm để tạo các mục tiêu giả qua đó đánh lừa hệ thống đầu dò mục tiêu trên tên lửa của đối phương, từ đó khiến tên lửa đối phương bắn nhầm mục tiêu.

Ngoài ra, tàu còn có hệ thống nhử mồi ngư lôi kiểu mảng kéo Type 04, hệ thống gây nhiễu bằng âm thanh FAJ và hệ thống phóng mồi nhử tự hành MOD. Khi hệ thống sonar của tàu cung cấp thông tin đo đạc và phương vị của ngư lôi, căn cứ vào tín hiệu cảnh báo mối đe dọa, hệ thống MOD sẽ phóng mồi bẫy ngư lôi về hướng của mối đe dọa, cùng lúc đó hệ thống FAJ sẽ tạo ra phương thức gây nhiễu tiếng ồn, cách ly sự tiếp xúc giữa ngư lôi và mục tiêu, sau đó MOD lại phóng tiếp một hoặc nhiều mồi bẫy khác, sử dụng tín hiệu hoàn toàn giống với tàu thật, đánh lừa ngư lôi di chuyển ra xa tàu. Sau đó, mồi bẫy âm thanh tự hành sẽ chuyển từ chế độ gây nhiễu sang chế độ mồi nhử, nhử ngư lôi rời xa tàu. Khoảng cách phát tín hiệu tối đa khoảng 1000m, thời gian hoạt động gây nhiễu khoảng 7 phút.

Type 04 được điều khiển số hóa và thiết kế kiểu module, có khả năng đánh lừa loại ngư lôi tìm bắt mục tiêu nhờ âm thanh. Khi triển khai, Type 04 được phóng ra từ phía đuôi tàu thông qua ống phóng để phóng ra một phao tiêu hình dây, sử dụng một dây cáp điện đồng trục truyền tín hiệu kéo theo phía đuôi tàu. Bên trong phao tiêu là một thiết bị phát âm thanh dưới nước, sử dụng phương thức điện tử hoặc điện cơ để phát ra tín hiệu âm thanh dụ ngư lôi. Do tín hiệu phát ra mạnh hơn cả tín hiệu âm thanh của tàu nên có thể bảo vệ cho tàu không bị tấn công.[1][2]

  • Radar mạng pha đa chức năng băng tầng kép OPY-1.
  • Hệ thống liên lạc vệ tinh NORA-1C-Y1 và NOLQ-1.
  • Hệ thống gây nhiễu bằng âm thanh FAJ
  • Hệ thống phóng mồi nhử tự hành MOD.
  • hệ thống phóng mồi nhử Mk-137 SRBOC mod 2.
  • Radar chuyển hướng, dẫn đường OPS-20C.
  • Radar định vị nhận dạng và theo dõi mục tiêu mặt nước OPS-48
  • Hệ thống chiến tranh điện tử tích hợp NOLQ-3D-2 (ECM).
  • Cửa sập dùng để thả sonar kiểu mảng kéo OQR-4 của JS Shiranui (DD-120).